
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, xét về bản chất, lý luận là hệ thống nhữngtri thức được khái quát từ những kinh nghiệm thực tiễn, phản ánh những mối liên hệ bản chất, những quy luật của thế giới khách quan. Kế thừa quan điểm của Chủ nghĩa Mác - Lênin, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nhấn mạnh vai trò to lớn của lý luận. Người đã dẫn lời của Lênin: “Không có lý luận cách mạng thì không có phong trào cách mạng”.
Hồ Chí Minh cho rằng: “Lý luận như cái kim chỉ nam, nó chỉ phương hướng cho chúng ta. Không có lý luận thì lúng túng như nhắm mắt mà đi”; “Làm mà không có lý luận thì không khác gì đi mò trong đêm tối”; “không có lý luận thì cũng như một mắt sáng, một mắt mờ”.
Chúng ta đi lên từ một nước nông nghiệp lạc hậu, sản xuất nhỏ là phổ biến, trình độ dân trí thấp, khoa học - kỹ thuật chưa phát triển. Đây chính là điều kiện thuận lợi cho bệnh kinh nghiệm nảy sinh và phát triển. Biểu hiện của căn bệnh này là tuyệt đối hóa kinh nghiệm, hạ thấp vai trò lý luận. Hồ Chí Minh nhận xét rằng, trong thực tiễn cách mạng, có những cán bộ đảng viên “làm được việc”, “có kinh nghiệm”, “Nhưng họ lại mắc phải cái bệnh khinh lý luận. Đối với những cán bộ đó, “cần phải nghiên cứu thêm lý luận”, bởi “có kinh nghiệm mà không có lý luận, cũng như một mắt sáng, một mắt mờ”.
Hồ Chí Minh dẫn lời của Lênin, cho rằng lý luận cách mạng không phải là giáo điều, nó là kim chỉ nam cho hành động cách mạng; lý luận luôn luôn cần được bổ sung bằng những kết luận rút ra từ thực tiễn sinh động”. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, “Lý luận cốt để áp dụng vào công việc thực tế. Lý luận mà không áp dụng vào thực tế là lý luận suông”.
Hồ Chí Minh cho rằng, “Học tập lý luận thì nhằm mục đích học để vận dụng chứ không phải học lý luận vì lý luận, hoặc vì tạo cho mình một cái vốn lý luận để sau này đưa ra mặc cả với Đảng. Khi vận dụng thì bổ sung, làm phong phú thêm lý luận bằng những kết luận mới rút ra từ thực tiễn cách mạng”; khi học tập lý luận, phải “liên hệ với những vấn đề thực tế ở trong nước và trên thế giới”.
Như vậy, lý luận chỉ thực sự có ý nghĩa khi được vận dụng vào thực tiễn, đáp ứng yêu cầu của thực tiễn; khi đó, lý luận sẽ đóng vai trò soi đường, dẫn đắt, chỉ đạo thực tiễn. Đồng thời, chính thông qua thực tiễn, chúng ta sẽ thu nhận được những “tài liệu cảm tính”, đúc kết, tích lũy được kinh nghiệm và chính thực tiễn đã cung cấp “vật liệu” cho nhận thức lý luận.
Nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong tư tưởng Hồ Chí Minh phải được hiểu: Thực tiễn - lý luận luôn có mối quan hệ biện chứng, thống nhất với nhau, tạo tiền đề cho nhau phát triển. Thực tiễn cần lý luận “soi đường”, định hướng để không mắc phải bệnh kinh nghiệm, còn lý luận phải dựa trên cơ sở thực tiễn, phản ánh thực tiễn và phải luôn liên hệ với thực tiễn để không mắc phải bệnh giáo điều.
Theo Hồ Chí Minh, khi trong Đảng trình độ lý luận còn thấp kém, phải “phải nêu cao tinh thần khiêm tốn, thật thà. Kiêu ngạo, tự phụ, tự mãn là kẻ thù số một của học tập”. Việc học tập lý luận phải “thành một tác phong thường xuyên”.
Trong những năm qua, Trường Chính trị Trần Phú đã có nhiều cố gắng vươn lên hoàn thành tốt công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ các cấp, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới. Tuy nhiên, so với yêu cầu, nhiệm vụ được giao, công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ của nhà trường còn một số mặt hạn chế, bất cập. Đặc biệt, việc quán triệt và thực hiện phương châm lý luận liên hệ với thực tiễn trong giảng dạy, học tập và nghiên cứu khoa học còn bộc lộ nhiều bất cập, hạn chế.
Quán triệt tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về nguyên tắc thống nhất giữa lý luận với thực tiễn, nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác giảng dạy lý luận trong tình hình mới, các giảng viên cần thực hiện tốt một số nhiệm vụ chủ yếu như sau:
Thứ nhất: Phải ra sức học tập, nâng cao trình độ lý luận, “tự nguyện, tự giác, xem công tác học tập cũng là một nhiệm vụ mà người cán bộ cách mạng phải hoàn thành cho được”, khắc phục “bệnh kém lý luận, khinh lý luận” như cảnh báo của Chủ tịch Hồ chí Minh.
Hiện nay, một bộ phận giảng viên còn bộc lộ những yếu kém về lý luận; nhận thức về chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh chưa sâu sắc, có mặt còn hạn chế; việc học tập, nghiên cứu đường lối chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật nhà nước còn bộc lộ nhiều bất cập, thiếu kịp thời, thường xuyên. Phương pháp tư duy chưa vươn tới tầm biện chứng, thậm chí còn dừng lại ở trình độ cảm tính, ở chủ nghĩa kinh nghiệm. Những hạn chế nêu trên ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng, hiệu quả công tác giảng dạy, nhất là trong điều kiện giảng dạy lý luận phải gắn với thực tiễn, phù hợp với thực tiễn, đủ sức lý giải những vấn đề thực tiễn đang đặt ra. Đây thực sự đang là yêu cầu cấp thiết và là “mệnh lệnh” đối với những người làm công tác giảng dạy lý luận; đòi hỏi giảng viên giảng dạy lý luận phải tích cực, tự giác, không ngừng làm giàu vốn tri thức lý luận của mình nhằm đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới. Ngoài kiến thức chuyên ngành đang giảng dạy, các giảng viên cần học tập, nghiên cứu không ngừng nâng cao trình độ lý luận chính trị, có vốn tri thức cơ bản, nền tảng về chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; nắm chắc chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật nhà nước; cập nhật kiến thức về các lĩnh vực của đời sống xã hội... để có vốn kiến thức sâu và rộng, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao trong công tác giảng dạy và nghiên cứu khoa học; phải thấm nhuần lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với những người làm công tác huấn luyện là phải “thạo nghề nghiệp”, rằng “kiêu ngạo, tự phụ, tự mãn là kẻ thù số một của học tập”, và “Người huấn luyện phải học thêm mãi thì mới làm được công việc huấn luyện của mình”.
Thứ hai: Hướng lý luận vào việc lý giải, làm sáng tỏ những vấn đề thực tiễn.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, lý luận có vai trò rất to lớn đối với thực tiễn. Lý luận hướng dẫn, chỉ đạo thực tiễn; lý luận khoa học là “kim chỉ nam” cho thực tiễn; vạch ra phương hướng mới, giúp thực tiễn hoạt động đúng hướng, hiệu quả, tránh mò mẫm, tự phát, “như người mù đi trong đêm”. Trong giảng dạy, kiến thức lý luận mà giảng viên đang truyền thụ phải hướng mạnh vào việc lý giải và làm sáng tỏ những vấn đề của thực tiễn, nhất là những vấn đề mới, những bức xúc mà thực tiễn cuộc sống và người học đang đặt ra, cung cấp cho người học những thông tin mới, những kiến thức thuộc lĩnh vực mà họ đang thiếu, đang cần. Đặc biệt, trong giáo dục lý luận chính trị, không được né tránh, hoặc phân tích, lý giải một cách qua loa, thiếu tính thuyết phục những vấn đề được cho là “nhạy cảm”, những vấn đề bức xúc đang đặt ra trong thực tế cuộc sống. Ngược lại, người làm công tác giảng dạy lý luận phải nghiên cứu tìm tòi, không ngừng làm giàu vốn tri thức của mình để có năng lực tư duy, trình độ lý luận sắc bén, có thông tin kịp thời, chính xác từ thực tiễn, để phân tích, lý giải một cách khoa học, qua đó, nhằm giáo dục, tạo niềm tin khoa học cho người học, tạo sự thống nhất cao về tư tưởng, đồng thời, góp phần tạo sự đồng thuận xã hội trước những vấn đề mà thực tiễn cuộc sống đang đặt ra. Chỉ khi đó, lý luận mà giảng viên đang giảng dạy, truyền thụ mới thực sự đóng vai trò “soi đường cho quốc dân đi” như những chỉ dẫn thiên tài của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Thứ ba: Thường xuyên tìm hiểu, nghiên cứu cập nhật, “làm mới” kiến thức lý luận.
Những sản phẩm lý luận ngay từ khi ra đời đã bộc lộ những bất cập và đã “tụt hậu” ở những mức độ khác nhau so với sự vận động của thực tiễn. Trong khi đó, phần lớn giáo trình, bài giảng, tài liệu phục vụ các môn học lý luận được biên soạn và xuất bản những năm trước đây, chưa được cập nhật, bổ sung những vấn đề mới cả về lý luận và thực tiễn; thậm chí có những nội dung đã lạc hậu so với thực tiễn. Thêm vào đó, đối tượng học tập, bồi dưỡng lý luận chính trị hiện nay chủ yếu là cán bộ, đảng viên - những người đã được học và đã có vốn kiến thức, trình độ lý luận ở những mức độ khác nhau. Thực tế đó đang đặt ra cho những người làm công tác giảng dạy lý luận chính trị phải không ngừng nỗ lực học tập, nghiên cứu để không chỉ có vốn tri thức vừa rộng, vừa sâu mà còn phải đáp ứng yêu cầu “mới” so với thực tiễn và nhu cầu, nguyện vọng của học viên. Theo đó, các giảng viên phải thường xuyên nắm bắt thông tin, khai thác những nguồn tư liệu mới phục vụ công tác giảng dạy, nhất là việc tiếp cận những công trình khoa học mới được công bố, những bài viết tại các diễn đàn, hội thảo khoa học vừa được tổ chức, sách và tạp chí liên quan vừa được xuất bản. Mặt khác, các giảng viên không những nắm vững kiến thức lý luận, nhất là những vấn đề mới, mà còn phải sâu sát, nắm chắc tình hình thực tiễn; biết lựa chọn, hệ thống hóa các hiện tượng, “tư liệu” đã và đang diễn ra trong thực tiễn các địa phương, đơn vị để minh chứng cho nội dung lý luận đang giảng dạy, nghiên cứu.
Thứ tư: Thường xuyên quan tâm nghiên cứu, tổng kết thực tiễn, kịp thời tiếp thu thông tin, “tài liệu cảm tính” từ thực tiễn.
Như chúng ta đều biết, lý luận có vai trò soi đường, dẫn đắt, chỉ đạo hoạt động thực tiễn. Đồng thời, chính thông qua thực tiễn, chúng ta sẽ thu nhận được những “tài liệu cảm tính”, đúc kết, tích lũy được kinh nghiệm và chính thực tiễn đã cung cấp “vật liệu” cho nhận thức lý luận. Hiện nay, phần lớn các giảng viên được học tập, nghiên cứu lý luận khá công phu, bài bản tại các trường và các cơ sở đào tạo nhưng chưa, hoặc ít có điều kiện đi cơ sở, tham gia các hoạt động thực tiễn, đặc biệt là chưa trực tiếp tham gia công tác lãnh đạo, quản lý tại các địa phương, đơn vị. Do đó, kiến thức, kinh nghiệm thực tiễn của các giảng viên, nhất là giảng viên trẻ vừa thiếu vừa tụt hậu so với tình hình. Trong khi đó, thực tiễn cuộc sống luôn vận động và phát triển, phát sinh nhiều vấn đề mới, nhiều “tài liệu cảm tính” cần được kịp thời phát hiện, tiếp thu, nghiên cứu để tổng kết, bổ sung vào vào bài giảng. Nhiệm vụ này càng có ý nghĩa và trở thành yêu cầu cấp thiết khi đối tượng được đào tạo, bồi dưỡng tại trường là cán bộ lãnh đạo, quản lý các địa phương, đơn vị - những người có vốn kiến thức kinh nghiệm thực tiễn rất phong phú và đang là chủ thể của quá trình lãnh đạo quản lý trên các lĩnh vực của đời sống xã hội. Theo đó, giảng viên cần tranh thủ thời gian tham gia các chuyến đi nghiên cứu thực tế, các mô hình, điển hình trên các lĩnh vực của đời sống xã hội; các địa phương, đơn vị có những điển hình tốt, cách làm hay, những “điểm mới” cần được kịp thời nghiên cứu, tổng kết. Cần chủ động tìm hiểu, tích cực tham gia các đề tài nghiên cứu khoa học, tổng kết thực tiễn, tham gia viết bài và dự các chuyên đề, hội thảo, diễn đàn... để một mặt rèn luyện, nâng cao năng lực nghiên cứu lý luận, mặt khác có điều kiện tiếp thu kịp thời kiến thức, kinh nghiệm thực tiễn trên các lĩnh vực.
Thứ năm: Tăng cường đổi mới phương pháp giảng dạy lý luận theo hướng lấy người học làm trung tâm, phát huy tính tích cực, chủ động của người học; học phải đi đôi với hành.
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh thường nhắc nhở những người làm công tác huấn luyện phải có phương pháp tốt, phải gắn lý luận với công tác thực tế, không nên lý luận suông, sa vào trích dẫn. Để công tác huấn luyện đạt hiệu quả, trước hết trong huấn luyện phải “thiết thực, chu đáo”. Yêu cầu này đòi hỏi những người làm công tác huấn luyện phải nghiên cứu, lựa chọn nội dung sát hợp với nhu cầu của người học, phù hợp với yêu cầu của thực tiễn công tác, đồng thời phải tiến hành huấn luyện công phu, đảm bảo chất lượng; tránh tình trạng “việc huấn luyện còn hữu danh vô thực, làm chỉ cốt nhiều mà không thiết thực, chu đáo”.
Một quy trình đào tạo, bồi dưỡng lý luận cho cán bộ chỉ được coi là hiệu quả, thiết thực khi: sau khi học, người cán bộ không chỉ hiểu, nắm chắc những vấn đề cốt lõi về lý luận, biết nên làm gì, mà còn phải biết làm như thế nào. Điều đó đặt ra yêu cầu trong giảng dạy, truyền thụ kiến thức phải hết sức quan tâm việc phát huy vai trò “chủ thể” của học viên, tránh lối truyền thụ kiến thức, một chiều, áp đặt. Phải thường xuyên tìm tòi, đổi mới, kết hợp nhuần nhuyễn các phương pháp trong giảng dạy; kết hợp sử dụng linh hoạt các phương pháp, phương tiện truyền thống với các phương pháp, phương tiện hiện đại, phù hợp với nội dung từng bài giảng, từng chuyên đề và phù hợp với các đối tượng học viên thuộc các lớp đào tạo, bồi dưỡng khác nhau. Đặc biệt, cần tăng cường các hình thức trao đổi, thảo luận trong quá trình giảng dạy.
Để tổ chức tốt các buổi thảo luận, các giảng viên cần căn cứ vào nội dung từng chuyên để, bài giảng để thiết kế hệ thống các câu hỏi, các nội dung thảo luận một cách khoa học, phù hợp với các đối tượng khác nhau; hướng các ý kiến trao đổi, thảo luận vào việc lý giải, làm sáng tỏ những vấn đề lý luận đang đặt ra, đồng thời thông qua đó cung cấp thông tin để tiếp tục nghiên cứu, tổng kết bổ sung vào lý luận.
Thứ sáu: Phải thường xuyên bám sát thực tiễn để tiếp cận thực tiễn dưới các hình thức và mức độ khác nhau.
Hiện nay, nhờ sự phát triển nhanh chóng của khoa học, công nghệ, đặc biệt là việc ứng dụng công nghệ thông tin vào các lĩnh vực của đời sống xã hội; phương tiện, thiết bị phục vụ công tác nghiên cứu giảng dạy ngày càng được tăng cường đầu tư, do đó giảng viên có nhiều “kênh”, nhiều hình thức để khai thác, tiếp nhận thông tin, cập nhật kiến thức thực tiễn. Tùy thuộc vào chương trình, nội dung các môn học, giảng viên có thể lựa chọn nhiều hình thức khác nhau để tiếp thu kiến thức thực tiễn ở những mức độ khác nhau. Ngoài việc tăng cường các chuyến đi thực tế tại cơ sở; gặp gỡ, trao đổi với các điển hình tiên tiến, các nhân chứng lịch sử; xâm nhập vào thực tiễn đời sống của cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân; tổ chức thăm quan các các mô hình trên các lĩnh vực... giảng viên cần thường xuyên khai thác thông tin, tư liệu thực tiễn từ các phương tiện thông tin đại chúng, các trang thông tin điện tử, trung tâm thông tin tư liệu của các ngành, các địa phương; tăng cường cập nhật, nghiên cứu các tài liệu, tư liệu chính thống, có độ tin cậy cao, nhất là các văn kiện đại hội, hội nghị, báo cáo chuyên đề, tài liệu từ các tọa đàm, hội thảo...
Đối tượng tham gia các khóa đào tạo, bồi dưỡng tại trường chính trị là cán bộ, đang đảm nhiệm hoặc dự nguồn các chức danh lãnh đạo quản lý. Họ có vốn sống và kinh nghiệm thực tiễn phong phú, lại có điều kiện tiếp cận và nắm bắt tình hình đã và đang diễn ra trong thực tiễn. Các giảng viên cần tận dụng cơ hội để tiếp xúc, trao đổi với các học viên thuộc các nhóm đối tượng khác nhau để tìm hiểu và nắm bắt thông tin cần thiết để bổ sung vào nội dung các chuyên đề đang giảng dạy, nhất là việc bố trí thời gian tăng cường hình thức trao đổi, thảo luận.
Thứ bảy: Phải nghiên cứu, lựa chọn thông tin thực tiễn vào bài giảng một cách khoa học, phù hợp với nội dung từng chuyên đề và các đối tượng học viên khác nhau. Thực tiễn rất rộng và đa dạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “Thực tế của chúng ta là những vấn đề mà cách mạng đề ra cho ta giải quyết. Thực tế bao gồm rất rộng. Nó bao gồm kinh nghiệm công tác tư tưởng của cá nhân, chính sách và đường lối của Đảng cho đến các vấn đề trong nước và trên thế giới. Đó là những thực tế mà chúng ta cần liên hệ”. Trong giảng dạy, một vấn đề lý luận có thể có nhiều hiện tượng, hoạt động thực tiễn để liên hệ, và cùng một bài giảng lại phải nhiều lần liên hệ với thực tiễn. Do đó, để phần liên hệ thực tiễn đảm bảo khoa học, đòi hỏi giảng viên không chỉ nắm vững kiến thức lý luận của toàn bộ nội dung bài giảng mà còn phải lựa chọn, sắp xếp để đưa thông tin, tư liệu thực tiễn vào bài giảng một cách công phu, khoa học, phù hợp với nội dung từng chuyên đề, phù hợp với các đối tượng học viên đang sinh hoạt, công tác ở các ngành, địa phương, đơn vị khác nhau. Đặc biệt, tư liệu thực tiễn đưa vào bài giảng phải đảm bảo tính điển hình, mang tính thời sự, có độ chính xác cao, phù hợp với nội dung lý luận đang giảng dạy, tránh tình trạng liên hệ tràn lan, sa vào kể lể dài dòng, đơn điệu, thậm chí “tô hồng’ hoặc “bôi đen”, “hư cấu” thực tiễn./.